Tin tức

Khoa Dược  »  Tin tức


SỞI: tác nhân gây bệnh, dịch tễ học, triệu chứng lâm sàng và biến chứng

 

Sởi là bệnh truyền nhiễm cấp tính có mức độ lây lan cao do virus sởi (thuộc họ Paramyxoviridae) gây ra. Bệnh chủ yếu lây qua đường hô hấp thông qua giọt bắn hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết của người nhiễm bệnh. Sởi có diễn biến đặc trưng với các triệu chứng  gồm sốt, ho, viêm kết mạc, xuất hiện hạt Koplik và sau đó là phát ban dạng dát sẩn lan từ mặt xuống toàn thân. Mặc dù sởi thường lành tính, bệnh có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như viêm phổi, viêm tai giữa, viêm não, thậm chí tử vong, đặc biệt ở trẻ suy dinh dưỡng và người suy giảm miễn dịch. Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, việc điều trị chủ yếu là điều trị triệu chứng và nâng đỡ tổng trạng bao gồm hạ sốt, đảm bảo dinh dưỡng, bổ sung vitamin A liều cao. Tiêm vắc-xin là biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

  1. Tác nhân gây bệnh

Measles morbillivirus, gọi tắt là virus sởi (Measles virus), là loại duy nhất gây bệnh ở người của chi Morbillivirus thuộc họ Paramyxoviridae. Đây là virus chứa ARN sợi đơn. Do chỉ có một serotype duy nhất, nên việc chủng ngừa bệnh sởi đạt hiệu quả rất cao. Virus sởi nhanh chóng bị bất hoạt bởi nhiệt độ, ánh sáng mặt trời, môi trường acid, ether và trypsin. Virus sởi có thể còn sống và còn khả năng lây nhiễm trong thời gian đến 2 giờ khi ở trong không khí hoặc khi ở trên bề mặt đồ vật đã bị nhiễm. Con người là vật chủ duy nhất của virus sởi trong tự nhiên.

Virus sởi có đường kính khoảng 100 - 200 nm, chứa lõi nucleocapsid với đường kính khoảng 18 nm. Protein F giúp virus xâm nhập vào vật chủ, gây tan huyết. Protein H giúp virus gắn lên bề mặt tế bào chủ. Protein M lót mặt trong của vỏ virus, có khối lượng phân tử khoảng 34 kDa.

 

  1. Dịch tễ học

Nguồn bệnh

Người là nguồn bệnh duy nhất của sởi. Không có tình trạng người nhiễm virus sởi không triệu chứng. Không có ổ chứa virus sởi ở động vật.

Phương thức lây truyền

Bệnh sởi rất dễ lây; hầu như 90% đối tượng chưa có miễn dịch sẽ mắc bệnh sau khi tiếp xúc với người bệnh. Sởi lây truyền trực tiếp qua đường hô hấp thông qua giọt bắn hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết của người nhiễm bệnh. Sự lây truyền qua đường không khí được ghi nhận ở những khu vực khép kín (như văn phòng, trường học) lên đến 2 giờ sau khi bệnh nhân sởi rời khỏi khu vực đó. Thời gian lây của bệnh sởi bắt đầu từ 1 – 2 ngày cuối thời kỳ ủ bệnh đến 4 – 5 ngày sau khi phát ban. Bệnh sởi không có trung gian truyền bệnh.

Đối tượng mắc bệnh

Trẻ em chưa được chích ngừa sởi là đối tượng nguy cơ cao nhất. Ngoài ra, bất kỳ người nào chưa có miễn dịch đối với sởi đều có thể mắc bệnh. Người mắc bệnh sởi hiếm khi mắc lại lần thứ hai. 

Tình hình mắc bệnh sởi

Sởi có ở khắp nơi trên thế giới, không phân biệt nông thôn hay thành thị. Ở các thành phố lớn và khu vực tập trung đông dân cư, bệnh thường xảy ra rải rác quanh năm.

Năm 2023, có khoảng 10,3 triệu ca mắc sởi trên toàn thế giới, tăng 20% so với năm 2022; 107.500 ca tử vong, chủ yếu ở trẻ em dưới 5 tuổi chưa được tiêm chủng đầy đủ.

Chủng ngừa vắc-xin sởi giúp giảm hơn 60 triệu ca tử vong do sởi từ năm 2000 đến năm 2023.

Đến giữa tháng 4 năm 2025, tình hình bệnh sởi tại Việt Nam đang diễn biến phức tạp với số ca mắc tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Từ đầu 2025 đến ngày 20/3/2025, cả nước ghi nhận 42.488 ca nghi sởi tại 63 tỉnh, thành phố. Trong đó, 4.027 ca dương tính. 5 trường hợp tử vong liên quan đến sởi tại TP. HCM, Đồng Nai, Bình Dương và Bình Phước mỗi nơi 1 ca; số mắc tăng cao so với cùng kỳ năm 2024 (111 trường hợp). Số trường hợp nghi sởi ghi nhận cao nhất tại khu vực miền Nam (54,9%), miền Trung (20%), miền Bắc (16,4%), Tây Nguyên (8,7%).

Về kết quả triển khai tiêm chủng mở rộng (bao gồm tiêm bù, tiêm vét), năm 2024, tỷ lệ tiêm vaccin sởi cho trẻ 9 tháng tuổi (mũi 1) là 97,4%, tỷ lệ tiêm vaccin sởi-rubella cho trẻ 18 tháng tuổi (mũi 2) là 98,8%.

  1. Cơ chế bệnh sinh

Quá trình xâm nhập bắt đầu từ đường hô hấp trên, đến tế bào biểu mô hô hấp ở phế quản và đại thực bào ở phổi. Sau quá trình nhân lên ở các hạch lympho, virus theo các bạch cầu, đặc biệt là bạch cầu đơn nhân (monocytes), lan truyền đến các tế bào thuộc hệ võng nội mô (tuyến ức, lách, hệ bạch huyết) và các cơ quan đích khác như da, kết mạc mắt, phổi, đường tiêu hóa, gan, thận và niêm mạc sinh dục. Sự nhân lên của virus xảy ra ở các tế bào biểu mô và tế bào nội mô, cũng như là ở bạch câu đơn nhân và đại thực bào, làm sản sinh ra những tế bào khổng lồ đa nhân. Tình trạng virus huyết xuất hiện vào ngày thứ 4 – 5 trước khi phát ban và giảm đi sau đó 24 – 48 giờ.

Phát ban điển hình của sởi là do tình trạng nhiễm virus của các tế bào nội mô ở da, hình thành từ sự lan truyền virus vào lớp biểu bì (thượng bì), phù và sừng hóa khu trú, cùng với việc tích tụ các tế bào biểu mô khổng lồ quanh mạch máu. Dấu hiệu Koplik, dấu hiệu nội ban đặc trưng ở niêm mạc miệng của người bệnh sởi, cũng có cơ thể bệnh sinh tương tự, làm ảnh hưởng đến lớp đệm niêm mạc tại chỗ. Ở đường hô hấp và đường tiêu hóa, cũng có hiện tượng viêm khu trú do việc bong tróc các tế bào biểu mô chết.

Miễn dịch mắc phải sau khi khỏi bệnh sẽ tồn tại suốt đời. Sự biến mất của virus khỏi cơ thể cần cả hai cơ chế đáp ứng miễn dịch: miễn dịch qua trung gian tế bào và miễn dịch dịch thể (kháng thể). Kháng thể IgM đặc hiệu có thể được phát hiện cùng lúc với thời kỳ phát ban, nó đạt đến nồng độ đỉnh ở ngày thứ 10 và biến mất sau một tháng kháng thể IgG đạt nồng độ đinh sau thời kỳ hồi phục và giảm dần từ từ theo thời gian, kháng thể IgG truyền từ mẹ sang con qua nhau thai và có thể tồn tại đến vài tháng đầu sau sinh.

Trong thời gian mắc bệnh sởi và nhiều tuần sau khi hồi phục, việc sản sinh kháng thể và đáp ứng miễn dịch tế bào đối với các tác nhân gây bệnh mới cũng bị giảm sút. Sự suy giảm miễn dịch do sởi có hậu quả nghiêm trọng ở những bệnh nhân sống ở các nước nhiệt đới, nơi mà tình trạng suy dinh dưỡng, sự thiếu hụt vitamin A, và các bệnh nhiễm trùng khác như HIV/AIDS và bệnh lao đang lưu hành, dẫn đến việc làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh và nguy cơ tử vong.

  1. Triệu chứng lâm sàng

 

Hình 1. Các triệu chứng của bệnh sởi

Thể điển hình: Diễn biến lâm sàng thể điển hình qua 4 giai đoạn

Giai đoạn ủ bệnh

Từ 7 đến 21 ngày (trung bình 10 ngày), triệu chứng xuất hiện sau khi phơi nhiễm 10 - 14 ngày. Giai đoạn khởi phát (viêm long)

Kéo dài 2 - 4 ngày. Trong giai đoạn này người bệnh sốt cao đột ngột, liên tục, kèm theo đau nhức cơ, mệt mỏi, chán ăn; viêm long đường hô hấp trên (ho, chảy mũi) và viêm kết mạc (chảy nước mắt, sung huyết kết mạc mắt, phù nề quanh mí mắt). Có thể thấy hạt Koplik là các hạt nhỏ có kích thước 0,5 - 1 mm màu trắng/xám có quầng ban đỏ nổi gồ lên trên bề mặt niêm mạc má (phía trong miệng, ngang răng hàm trên). Hạt Koplik thường xuất hiện một ngày trước phát ban và tồn tại 2 -3 ngày sau khi ban xuất hiện.

Hình 2. Các hạt Koplik ở niêm mạc miệng

 

Giai đoạn toàn phát

Kéo dài 2 - 5 ngày. Thường sau khi sốt cao 3 - 4 ngày người bệnh bắt đầu phát ban dạng dát sẩn, khi căng da thì ban biến mất, xuất hiện từ sau tai, sau gáy, trán, mặt, cổ dần lan đến thân mình và tứ chi, cả ở lòng bàn tay và gan bàn chân. Ban có thể hợp lại đặc biệt là ở vùng mặt và thân mình. Khi ban mọc hết toàn thân thì thân nhiệt giảm dần.

Giai đoạn hồi phục

Ban nhạt màu dần rồi sang màu xám, bong vảy phấn sẫm màu, để lại vết thâm vằn da hổ và biến mất theo thứ tự như khi xuất hiện. Nếu không xuất hiện biến chứng thì bệnh tự khỏi. Có thể có ho kéo dài 1 - 2 tuần sau khi hết ban.

Hình 3. Diễn biến lâm sàng bệnh Sởi thể điển hình



 

Thể không điển hình

Biểu hiện lâm sàng có thể sốt nhẹ thoáng qua, viêm long nhẹ và phát ban ít, toàn trạng tốt. Thể này dễ bị bỏ qua, dẫn đến lây lan bệnh cho mọi người xung quanh mà không biết

Người bệnh cũng có thể sốt cao liên tục, phát ban không điển hình, phù nề tứ chi, đau mỏi toàn thân, thường có viêm phổi nặng kèm theo.

 

  1. Biến chứng

Khoảng 30% các trường hợp mắc bệnh sởi có một hay nhiều biến chứng. Biến chứng của sởi có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp nhất ở trẻ em dưới 5 tuổi (đặc biệt là trẻ dưới 1 tuổi) và người lớn từ 20 tuổi trở lên.

Tiêu chảy là biến chứng thường gặp nhất của sởi, chiếm 8% các trường hợp mắc bệnh sởi. Viêm tai giữa chiếm 7% các trường hợp và xuất hiện hầu hết là ở trẻ em. Viêm phổi chiếm 6%.

Bệnh sởi trong thai kỳ dẫn đến nguy cơ cao sinh non, sảy thai tự nhiên, và trẻ sinh ra nhẹ cân. 

 

Hình 4. Các biến chứng của sởi

Viêm phổi

Là nguyên nhân tử vong phổ biến nhất. Viêm phổi có thể xảy ra do: viêm phổi tế bào khổng lồ do vi rút sởi gây trực tiếp, hoặc do nhiễm trùng, bội nhiễm do vi khuẩn. 

Sau viêm phổi do Sởi nặng, bệnh nhân có thể tiến triển đến viêm tiểu phế quản tắc nghẽn (Bronchiolitis Obliterans) và tử vong. Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, bệnh Sởi thường gây ra các biến chứng nặng về hô hấp, bao gồm: viêm thanh khí phế quản (Croup), viêm khí quản, viêm tiểu phế quản.

Biến chứng tai - mũi - họng

  • Viêm tai giữa cấp là biến chứng phổ biến nhất.
  • Viêm xoang và viêm xương chũm cũng có thể xảy ra.
  • Có thể có áp xe sau họng.

Biến chứng tiêu hóa

  • Tiêu chảy và nôn trớ thường gặp trong giai đoạn cấp tính. Mất nước có thể xảy ra do giảm lượng thức ăn đưa vào liên quan đến viêm miệng, tiêu chảy, hoặc cả hai, đặc biệt ở trẻ nhỏ.
  • Viêm ruột thừa hoặc đau bụng có thể xảy ra do tắc nghẽn lòng ruột thừa liên quan đến tăng sản mô lympho.

Biến chứng thần kinh

  • Co giật do sốt: xảy ra ở < 3% trẻ mắc sởi.
  • Viêm não do sởi: tỷ lệ mắc từ 1 - 3/1.000 ca, nguy cơ cao hơn ở thanh thiếu niên và người lớn so với trẻ nhỏ. 

Viêm não xơ cứng toàn thể bán cấp (Subacute Sclerosing Panencephalitis - SSPE) thường gặp ở trẻ mắc sởi trước 2 tuổi, 75% bệnh nhân SSPE bị sởi trước 4 tuổi. 

Khởi phát bệnh lao

Ở những bệnh nhân đang nhiễm lao tiềm ẩn nhiễm sởi có thể tăng nguy cơ kích hoạt bệnh lao phổi.

Nhiễm trùng huyết

  • Sốc nhiễm trùng được xác nhận khi người bệnh có tình trạng nhiễm trùng huyết và suy chức năng hệ tuần hoàn.
  • Khi phát hiện, bệnh nhân cần được điều trị kịp thời bằng kháng sinh phù hợp và liệu pháp bù dịch, thuốc vận mạch.

Yếu tố nguy cơ bệnh diễn tiến nặng

 

Hình 5. Một số yếu tố nguy cơ dẫn đến sởi diễn biến nặng

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bệnh Truyền Nhiễm, nhà xuất bản Y Học, 2020.
  2. Quyết định số 1019/QĐ-BYT 26 tháng 3 năm 2025, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh Sởi, Bộ Y Tế.
  3. World Health Organization. "Manual for the laboratory diagnosis of measles and rubella infection." Geneva: WHO (2007).
  4. J. Blaser. Mandell, Douglas, and Bennett's principles and practice of infectious diseases E-Book: 2-volume set. Elsevier health sciences, 2019.
  5. Wang, C‐H. "Image gallery: measles revival: Koplik's spots." British Journal of Dermatology 182.1 (2020): e4-e4.
  6. Kliegman RM, Weiss SL, Tissières P, et al. Measles. In: Kliegman RM, editor.  Nelson Textbook of Pediatrics. 22nd ed. Philadelphia: Elsevier; 2024. Volume 1.  Part VII, Chapter 293. p. 1958-1963.
  7. Executive Summary of the Second International Guidelines for the Diagnosis and Management of Pediatric Acute Respiratory Distress Syndrome (PALICC-2): Erratum. Pediatr Crit Care Med. 2024 Mar 1;25(3):e175.
  8. Bhalla, Anoopindar, et al. "Monitoring in pediatric acute respiratory distress syndrome: from the Second Pediatric Acute Lung Injury Consensus Conference." Pediatric Critical Care Medicine 24.Supplement 1 2S (2023): S112-S123.
  9. Coughlin, Melissa M., et al. "Perspective on global measles epidemiology and control and the role of novel vaccination strategies." Viruses 9.1 (2017): 11.
  10. https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/measles?utm_source
  11. https://vneconomy.vn/bo-y-te-dich-soi-van-trong-tam-kiem-soat.htm?utm_source

 

Tác giả:

Ths. Kim Ngọc Sơn

Ths. Nguyễn Hiếu Minh 

 


  • Địa chỉ: Số 10, Huỳnh Văn Nghệ, P. Bửu Long, Tp. Biên Hòa - Tỉnh Đồng Nai
  • Điện thoại: 0251 3952 778
  • Email: lachong@lhu.edu.vn
  • © 2023 Đại học Lạc Hồng
  3,969,913       1/517